Bài viết của thầy
Võ Văn Tài, nguyên Phó Viện trưởng Viện kiểm sát Thành phố Tây Ninh, hiện là
giảng viên dạy bộ môn Luật Hình sự, Tố tụng Hình sự tại trường Đại học Kinh Tế
- Luật , Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Mấy ngày nay, dư
luận rất quan tâm về diễn biến của phiên tòa xét xử giám đốc thẩm đối với vụ án
Hồ Duy Hải. Với những thông tin mà báo chí đăng tải, tôi dự đoán rằng Hội đồng
giám đốc thẩm, TAND tối cao sẽ hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm và phúc thẩm để trả
hồ sơ về cấp sơ thẩm tiến hành điều tra, xét xử lại vụ án theo thủ tục chung.
Nhưng không phải vậy. Hội đồng xét xử đã bác toàn bộ kháng nghị giám đốc của
Viện trưởng VKSND tối cao. Tôi nghĩ, quyết định trên làm không ít người phải
ngỡ ngàng. Có thể tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm gồm ba vấn đề: Tuy vụ án
(chính xác là quá trình điều tra) có sai sót và vi phạm tố tụng, nhưng sai sót
và vi phạm trên không làm thay đổi bản chất của vụ án; việc cấp sơ thẩm và phúc
thẩm tuyên tử hình đối với bị cáo Hồ Duy Hải về tội giết người (giết 02 nữ nhân
viên Bưu điện Cầu Voi) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật; Chủ tịch nước
đã có quyết định bác đơn xin ân giảm án tử hình của bị cáo và quyết định trên
đang có hiệu lực, pháp luật cũng không quy định khác nên Kháng nghị đốc thẩm
của Viện trưởng VKSND tối cao là trái luật.
Quyết định của
Hội đồng xét xử cho thấy rất nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Tuy không được trực
tiếp xem hồ sơ, nhưng qua theo dõi vụ án từ 2014 (thời điểm hoãn thi hành án tử
hình bị cáo Hải) đến nay, tôi thấy khá rõ ràng sự vi phạm nghiêm trọng của CQĐT
ở khâu khám nghiệm hiện trường, khâu thu giữ vật chứng, dấu vết liên quan đến
việc chứng minh người phạm tội và ở các hoạt động điều tra khác như sau:
- Thứ nhất: Tại
hiện trường vụ giết 02 nạn nhân có con dao và cái thớt nhưng không hiểu vì lý
do gì mà người chủ trì khám nghiệm lại không thu giữ? Đấy là những vật chứng
đặc biệt quan trọng, nó giúp cho CQĐT Long An kết luận chính xác là nạn nhân bị
giết bởi hung khí gì, và giúp cho truy ra hung thủ dễ dàng nếu thu được mẫu vân
tay trên hung khí đó. Sau khi bắt Hồ Duy Hải, CQĐT quay lại hiện trường tìm hai
loại hung khí trên thì muộn màn. Để lấp liếm (vì sai sót đó là không thể khắc
phục) cho sai sót “chết người”, Điều tra viên nhờ nhân chứng (tư cách nhân
chứng này cũng chưa đúng, quý vị xem lại định nghĩa về nhân chứng quy định tại
Điều 66 BLTTHS nhé) ra chợ mua 01 con dao, 01 cái thớt và yêu cầu bị can vẽ lại
hình dáng con dao rồi cho bị cáo nhận dạng hung khí mà bị cáo sử dụng giống như
đồ mua ngoài chợ về, từ đó cơ quan tố tụng kết luận hung khí mà bị cáo dùng để
giết người có hình dạng như thế.
Xin thưa quý
tòa, theo Điều 190 Bộ luật TTHS 2015 (BLTTHS 2003 cũng như vậy) quy định, khi
cho người phạm tội tiến hành nhận dạng đồ vật thì các vị phải đưa ra ít nhất là
03 đồ vật, như vậy phải đưa ra ít nhất là 03 con dao và 03 cái thớt khác nhau
mới đúng quy định nhé. CQĐT chỉ đưa ra 01 vật duy nhất là không đúng quy định.
Việc tiến hành cho nhận dạng sai quy trình sẽ làm cho Biên bản nhận dạng không
có giá trị chứng minh. Vì vậy, đến hôm nay, quý tòa cũng không có cở sở để kết
luận nạn nhân bị giết bởi hung khí có hình dáng chính xác như thế nào.
- Thứ hai: Về
mẫu máu thu tại hiện trường, nghi máu của hung thủ nhưng CQĐT không trưng cầu
giám ngay, để mấy tháng sau khi mẫu máu bị hư hoại mới trưng cầu làm cho kết
quả giám định không có tác dụng gì cả. Việc sai phạm này dẫn đến hệ lụy là
chúng ta không loại trừ được phán đoán nghi ngờ rằng hung thủ giết hai nạn nhân
là một người khác.
- Thứ ba, có
nhân chứng khai trước khi hai nạn nhân bị giết, có thấy một thanh niên ngồi
trong Bưu điện xem điện thoại, nhân chứng mô tả dáng người thanh niên giống như
bị cáo không có nghĩa người thanh niên ấy là bị cáo. Và CQĐT không cho nhân
chứng nhận dạng bị cáo Hải là một sai lầm rất nghiêm trọng nữa. Nguyên tắc tố
tụng hiện đại không chấp nhận kiểu suy luận mang tính chủ quan của người tiến
hành tố tụng, là chỉ cần sự mô tả của nhân chứng về tướng mạo hung thủ rồi đi
tìm coi ai có đặc điểm tương tự như thế rồi suy ra người đó là hung thủ. Kiểu
suy luận này không thể tồn tại ở các quan tòa thời hiện đại. Rồi quý tòa cho
rằng tuy có sai phạm nhưng không làm thay đổi bản chất vụ án? Xin thưa quý tòa,
không làm thay đổi bản chất vấn đề ở đây là có vụ án giết người, cướp tài sản
xảy ra tại Bưu điện Cầu Voi vào ngày giờ như thế, nạn nhân là 02 nữ nhân viên
Bưu điện, còn ai là hung thủ thì cơ quan tố tụng phải chứng minh với tinh thần
trách nhiệm cao, thận trọng, toàn diện, khách quan và luôn tuân theo pháp luật
nhé.
- Thứ tư, quý
tòa cho rằng bị cáo thừa nhận đã dùng dao và thớt giết nạn nhân, người dọn dẹp
Bưu điện cũng thừa nhận có con dao và cái thớt hình dáng như vậy và khám nghiêm
tử thi cho thấy nạn nhân có vết thương do vật sắc và vật cứng gây ra; bị cáo
khai có nhờ 01 nạn nhân đi mua trái cây, qua xác minh người bán trái cây thời
điểm đó thừa nhận có chị V đến mua trái cây; và bị cáo khai có đi đến địa điểm
tiêu thụ tài sản là đúng, vì chỉ bị cáo có khai nên CQĐT mới xác định được địa
điểm ấy… Bị cáo khai báo “trùng khớp” với các tình tiết, chứng cứ mà CQĐT thu
thập được, vậy hung thủ giết người là bị cáo. Lập luận này tôi thấy quá đơn
giản, đặc biệt trong thời điểm 2010, khi mà tình trạng dùng nhục hình rất nhức
nhối trong thực tế điều tra. Chắc quý tòa không quên vụ án Nguyễn Thanh Chấn,
Huỳnh Văn Nén, Hàn Đức Long… và đặc biệt là vụ 07 người Khơ-me ở Sóc Trăng chứ?
Bảy con người vô tội đó tự nhiên bị bắt và khởi tố về tội giết người (nạn nhân
là anh Lý Văn Dũng), hồ sơ do Điều tra viên xây dựng “đẹp” đến không có một chỗ
nào mâu thuẫn, cho đến khi 02 đứa bé gái đến tự thú mình là hung thủ mới tả hỏa
ra do Điều tra viên làm sai lệch sơ vụ án. Tôi không dám nói vụ án này có vấn
đề như thế. Nhưng nếu Điều tra viên muốn làm cho người đang bị bắt khai sao cho
trùng khớp với các nội dung khác thì không mấy khó khăn. Đồng thời, những tình
tiết mà quý tòa tin rằng hung thủ đúng là Hồ Duy Hải đều là những chứng cứ gián
tiếp. Phải chi đây chỉ là vụ án ít nghiêm trọng, bị cáo chỉ bị phạt vài tháng
tù, đằng này là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo bị tuyên tử hình nhưng chỉ
với những chứng cứ gián tiếp như vậy thì không thể thuyết phục được dư luận và
có gì đó giống như là một sự phiêu lưu không hơn, không kém?
- Thứ năm, Hội
đồng xét xử cho rằng khi Quyết định bác đơn xin ân giảm án tử hình của Chủ tịch
nước đối với bị cáo đang có hiệu lực thì Viện trưởng VKSTC tối cao không có
quyền kháng nghị là chưa có tiền lệ và luật cũng không có quy định rõ về vấn đề
này.
Để lý giải vấn
đề Viện trưởng (hoặc Chánh án) tối cao có được ban hành kháng nghị giám đốc
thẩm trong trường hợp như thế hay không thì phải quay về lý luận cơ bản của tố
tụng hình sự. Theo Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND và Bộ luật TTHS, thì Tòa án là
cơ quan duy nhất có quyền xét xử đối với tất cả tội phạm trên lãnh thổ Việt
Nam, và cấp xét xử cao nhất là Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, cấp xét xử này
có quyền xét lại tất cả các bản án đã có hiệu lực pháp luật trong cả nước. Khi
thực hiện nhiệm vụ, các thẩm phán tham gia Hội đồng xét xử được độc lập, chỉ tuân
theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật với những quyết định của
mình. Như vậy, cơ quan chịu trách nhiệm xét xử đúng người, đúng tội là Tòa án,
không phải Chủ tịch nước. Đối với những bị cáo bị tuyên tử hình và bản án đã có
hiệu lực pháp luật, thì thủ tục bắt buộc sau đó là Viện trưởng, Chánh án tối
cao phải ra quyết định không kháng nghị vụ án theo trình tự giám đốc hoặc tái
thẩm, nhưng Chủ tịch nước thì không bắt buộc trong mọi trường hợp phải có Quyết
định bác đơn xin ân giảm của bị cáo, và Luật thi hành án cũng không bắt buộc
phải có quyết định trên của Chủ tịch nước trong hồ sơ thi hành án tử hình.
Rõ ràng thủ tục
trên không thể được xem là một thủ tục trong hoạt động tố tụng hình sự, hoạt
động xét xử, đối với quyết định không kháng nghị của Chánh án và Viện trưởng
như là một sự kiểm tra và kết luận rằng đã xét xử đúng người, đúng tội, không
oan sai; còn Chủ tịch nước quyết định bác hay chấp nhận đơn xin ân giảm hình
phạt tử hình của bị cáo chỉ như là một hoạt động mang tính nhân đạo, quyết định
của Chủ tịch nước không phải là sự đảm bảo rằng Tòa án đã xét xử có đúng đắn
hay không.
Đồng thời, trong
Bộ luật TTHS quy định, khi nhận thấy có sự sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng
pháp luật hoặc có vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự và có lợi cho bị cáo,
thì Chánh án hoặc Viện trưởng tối cao phải thực hiện trách nhiệm kháng nghị
giám đốc thẩm để xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật; luật tố tụng hình sự
cũng không ràng buộc là có Quyết định của Chủ tịch nước thì không được kháng
nghị. Vì vậy, theo tôi việc Viện trưởng tối cao kháng nghị giám đốc thẩm đối
với vụ án Hồ Duy Hải trong trường hợp nói trên là không vi phạm thẩm quyền
trong tố tụng.
Khi pháp luật
chưa quy định rõ ràng, hoạt động điều tra thì vi phạm nghiêm trọng tố tụng,
chứng cứ buộc tội thì không vững chắc nhưng quý tòa suy luận và áp dụng theo
hướng bất lợi và giữ nguyên bản án tử hình đối với bị cáo là vi phạm rất nghiêm
trọng nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, đặc biệt là nguyên tắc suy đoán vô
tội. Tôi không hiểu quý tòa căn cứ vào điều gì để cho rằng cấp sơ thẩm, phúc
thẩm xét xử đúng người, đúng tội? Phải chăng quý tòa chỉ dựa vào một loại sản
phẩm tinh thần “xa xỉ” là niềm tin nội tâm?